Nấm ký sinh trên cơ
thể người được chia làm 3 nhóm là nấm men, nấm sợi và nấm hỗn hợp. Nấm thường
gây bệnh trên bề mặt da, móng, tóc (nấm nông), ở tổ chức dưới da (nấm sâu) và
cơ quan nội tạng như phổi, màng não... Nó còn gây bệnh ở các vùng niêm mạc ở mắt,
miệng và âm đạo.
Dưới đây là một số loại thuốc chống nấm thông
thường:
ASA - Axetyl salixylic
axit: dạng dung dịch 10%, có tác dụng ức chế sự phát triển của nấm. Thuốc chỉ
định dùng cho các loại nấm nông ngoài da gây hắc lào, lang ben, nấm kẽ... Ngày
bôi thuốc 1 lần, tránh bôi lên vùng da mặt, đầu, bộ phận sinh dục và niêm mạc.
Hiện nay, ASA ít được dùng do tác dụng phụ gây bỏng, rát tại chỗ.
Griseofulvin: dạng mỡ bôi 5%,
viên nén: 500mg, 125mg, có tác dụng chống 3 loại nấm là trichophyton,
epidermophyton và microsporum gây bệnh ở da, móng, tóc, da đầu. Thuốc được chỉ
định cho các bệnh hắc lào, nấm móng, nấm tổ ong. Griseofulvin được chuyển hóa
qua gan nên thận trọng khi dùng cho bệnh nhân suy gan.
Ketoconazole: là thuốc kháng
nấm có hoạt phổ rộng với cả 3 loại nấm men, nấm sợi và nấm hỗn hợp, do có khả
năng ức chế sinh tổng hợp chất ergosterol và cytochrome P-450 của tế bào nấm.
Thuốc được chỉ định điều trị nấm candida ở niêm mạc, nấm da nặng ở mặt, thân,
bẹn, kẽ móng, lang ben, viêm da do tiết bã nhờn. Ngoài ra, ketoconazole còn có
thể kháng androgen, nên được dùng trị chứng rậm lông, dậy thì sớm và ung thư
tuyến tiền liệt. Khi dùng thuốc, không nên phối hợp với các thuốc kháng axit
dịch vị như isoniazid, omeprazole, rifabutin và rifampin vì có thể giảm tác
dụng.
Fluconazole: Thuốc có tác
dụng ức chế sinh tổng hợp ergosterol của màng tế bào nấm nên có thể kháng nấm
nông và nấm toàn thể.
Chỉ định điều trị chủ yếu các chủng nấm candida gây bệnh ở âm đạo, tiết niệu, hầu họng, viêm quanh móng. Fluconazole còn có tác dụng kháng lại nấm cryptococcus neoformans, nên cũng là liệu pháp trị viêm màng não do cryptococcus ở bệnh nhân AIDS.
Chỉ định điều trị chủ yếu các chủng nấm candida gây bệnh ở âm đạo, tiết niệu, hầu họng, viêm quanh móng. Fluconazole còn có tác dụng kháng lại nấm cryptococcus neoformans, nên cũng là liệu pháp trị viêm màng não do cryptococcus ở bệnh nhân AIDS.
Itraconazole là thành viên
của nhóm triazol có hoạt phổ rộng kháng lại nhiều chủng nấm, cả nấm nông và nấm
sâu, nấm phủ tạng, nấm móng. Thuốc được chuyển hóa qua gan nên không dùng cho
bệnh nhân có viêm gan, suy gan, nếu dùng trên 1 tháng phải kiểm tra chức năng
gan.
Terbinafine: là thuốc diệt
nấm có hoạt phổ rộng, có khả năng ức chế sự phát triển của nấm ở giai đoạn sớm
nhất. Thuốc là lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân nấm da như hắc lào, lang ben,
nhiễm nấm candida ở da: nấm kẽ ngón chân. Thuốc ít có tác dụng phụ, tuy nhiên
một số bệnh nhân có biểu hiện đau đầu, buôn nôn, tiêu chảy khi dùng thuốc và sẽ
hết ngay sau khi ngừng điều trị.
Miconazol nitrate có một chế phẩm thông dụng là daktarin
oral gel 2%, tác dụng kháng nấm sợi, nấm men. Chỉ định điều trị nấm vùng niêm
mạc lưỡi miệng, hầu họng, nấm đường tiêu hóa. Thuốc không có chống chỉ định,
nhưng có thể gây buồn nôn và tiêu chảy khi dùng kéo dài.
Bác sĩ Đỗ Xuân Khoát, Sức
Khỏe & Đời Sống
0 nhận xét:
Speak up your mind
Tell us what you're thinking... !